Huyền Quang (1254-1334) là một thiền sư đắc đạo, vị Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, đồng thời là một nhà thơ tài hoa với những vần thơ “bay bướm, phóng khoáng”, “tinh tế, cao siêu”. Bài viết đi sâu nghiên cứu thơ của vị thi tăng đời Trần nổi tiếng tài hoa này.

Trong truyền thống Phật giáo, đa số thiền sư đắc đạo thường có trước tác để lại cho đời, từ đó tạo nên một bộ phận văn học độc đáo: Văn học Phật giáo. Ở Việt Nam cũng không ngoại lệ, nghĩa là cũng nằm trong truyền thống văn hóa – văn học chung đó.

Trong số các danh tăng – danh tác của gần hai ngàn năm văn học Phật giáo Việt Nam như trên, ở đây, chúng tôi chọn thiền sư – thi sĩ Huyền Quang để giới thiệu, bởi nhiều lí do: Trước khi xuất gia, Huyền Quang đã là một vị trí thức – đại quan nổi tiếng uyên bác dưới thời thịnh Trần; là một tác gia thi sĩ tài hoa với nhiều bài thơ “ý tinh tế, cao siêu” và “lời bay bướm, phóng khoáng” được người đời xưa như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú hết lời ngợi khen; là vị Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử; cuộc đời phủ đầy huyền thoại và nỗi oan tình của thiền sư đã trở thành giai thoại văn chương thú vị, cuốn hút nhiều đại danh bút viết về hành trạng của ông như các truyện kí Tổ gia thực lục, khuyết danh, đời Trần, về sau có chép lại trong tập Tam Tổ thực lục (Ngay cả truyện kí này với quá trình lưu truyền, luân chuyển lưu lạc của nó từ Việt Nam sang Trung Quốc, rồi vài thế kỉ sau nó được trả về Việt Nam, cũng đã là một điều kì lạ, hấp dẫn); Nguyễn Bỉnh Khiêm với Huyền Quang hành giải; Ngô Thì Sĩ với Huyền Quang giải trào; Đan Sơn với truyện Vị sư già trên núi Yên Tử trong tập Sơn cư tạp thuật

Theo Tổ gia thực lục, Huyền Quang tên thật Lý Đạo Tái (Tải Đạo), quê ở hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang (khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470-1497) đời Lê Thánh Tông, địa danh này đổi thành làng Vạn Tư, nay thuộc huyện Gia Định, tỉnh Bắc Giang), nhà ông ở phía Đông Nam chùa Ngọc Hoàng. Ông sinh năm Giáp Dần (1254) và tịch ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (dương lịch 27-02-1334), xuất thân trong một gia đình dòng dõi, nhiều đời làm quan. Vị Tổ thứ 7 là Lý Ôn Hòa làm quan đến chức Hành khiển dưới triều Lý Thần Tông (1128-1138). Ông nội làm quan Chuyển vận sứ đời Trần. Cha là Lý Tuệ Tổ từng tòng quân đánh giặc, lập được công trạng, vua Trần ban chức quan, nhưng ông xin trở về quê vui thú điền viên. Mẹ họ Lê, một phụ nữ đức hạnh, kính thờ gia đình nhà chồng rất mực hiếu thuận [6, tờ 49a].

Cũng theo Tổ gia thực lục thì lúc ông mới sinh “có tia sáng mờ ảo, mùi hương thơm phức. Người ta gọi đó là đứa hài đồng có mùi hương thanh tịnh”. Đến tuổi đồng ấu “có thể mạo kì dị, mà có chí khí của bậc trác việt vĩ nhân. Cha mẹ ông rất yêu quý, dạy cho học văn chương. Ông nghe một biết mười, có tài của Nhan Hồi Á Thánh, do đó được đặt tên là Tải Đạo. Năm 20 tuổi đậu thi Hương, năm sau đậu thủ khoa kì thi Hội” [6, tờ 51a]1.

Sau khi thi đậu, vua Trần Nhân Tông (trị vì 1278-1293) định gả công chúa Liễu Nữ, cháu của An Sinh Vương Trần Liễu cho ông, nhưng ông từ chối. Hơn hai mươi năm làm quan ở Viện Hàn lâm dưới triều Trần Nhân Tông rồi Trần Anh Tông, ông “từng phụng mệnh triều đình tiếp sứ giả phương Bắc, văn thư qua lại, trích dẫn kinh nghĩa, ứng đối lưu loát. Văn chương ngôn ngữ hơn cả Trung Quốc và các lân bang” [6, tờ 51b].

Dưới triều Trần Anh Tông (trị vì 1293-1314), lúc ông theo nhà vua đến chùa Vĩnh Nghiêm, gặp Điều Ngự Giác Hoàng và nghe thiền sư Pháp Loa giảng pháp2, ông có ý định xuất gia. Sau ba lần dâng biểu từ chức để đi tu, năm 1305, lúc ông đã 51 tuổi, vua Trần Anh Tông mới chấp thuận, ông thọ giới và theo học thiền sư Bão Phác. Được Điều Ngự Phật Hoàng ấn chứng, thọ kí và về sau ông trở thành vị Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, khi ông đã ngoài 70 tuổi.

Huyền Quang là người trước tác và biên soạn khá nhiều sách được lưu hành trong Giáo hội Trúc Lâm như:

– Chư phẩm kinh: Tuyển tập những kinh thiết yếu và thực dụng.

– Công văn tập: Tuyển tập những bài văn sớ điệp thuộc nghi lễ Phật giáo.

– Thích khoa giáo: Sách giáo khoa về Phật học.

Phổ Tuệ ngữ lục.

Và một số thư từ ngoại giao tiếp các sứ đoàn. Hiện tất cả đã thất lạc.

Riêng về thơ, ông có Ngọc tiên tập cả nghìn bài chữ Hán với lời thơ “bay bướm, phóng khoáng” [1, tr.73], nhưng rất tiếc chỉ còn 25 bài được Lê Quý Đôn (1726-1784) chép trong Toàn Việt thi lục, và Bùi Huy Bích (1744-1818) chép trong Hoàng Việt thi tuyển, mà sau này bộ Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng có in lại đầy đủ, trong số đó đa phần là thơ viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.

Về văn, Huyền Quang để lại một bài phú Nôm: Vịnh Vân Yên tự phú. Cùng với bài Cư trần lạc đạo phú và bài Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của Phật Hoàng Trần Nhân Tông, thì đây là ba tác phẩm văn học chữ Nôm xưa nhất hiện còn lại trong văn học trung đại Việt Nam.

Trong thơ và phú hiện còn của Huyền Quang, tư tưởng Thiền Phật được thể hiện rõ nét. Đây là những sáng tác trực tiếp bàn về Phật về Thiền qua các phạm trù như tâm, Phật, sinh tử, niết bàn, chân như, sắc không, hữu vô… hay cảnh vật được thi nhân tái hiện qua cảm quan mĩ học thiền vắng lặng, hư tịch, tự tại. Có thể kể đến một số bài như: Vịnh Vân Yên tự phú, Diên Hựu tự, Đề Đạm Thủy tự, Tảo thu, Thạch thất… Ngay cả cuộc đối thoại giữa Huyền Quang và Pháp Loa lúc Pháp Loa nằm trên giường bệnh cũng thể hiện sâu đậm Thiền ý3. Ở đó, thiền sư đã đạt đến tâm không, nhất thừa pháp, siêu việt hữu vô, bình đẳng tướng, nên không còn biện biệt nhị nguyên đối đãi, vì thế ‘ma cung’ và ‘Phật quốc’ là một chứ không phải hai, như trong bài Diên Hựu tự (Chùa Diên Hựu):

Vạn duyên bất nhiễu thành già tục,

Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan.

Tham thấu thị phi bình đẳng tướng,

Ma cung Phật quốc hảo sinh quan.

(Muôn vàn nhân duyên không vương vấn là bức thành che niềm tục,

Không lo lắng chút gì nên tầm mắt mở rộng.

Hiểu thấu ý nghĩa của thuyết phải trái đều như nhau,

Thì xem ma cung chẳng khác gì nước Phật!)

Khi đạt cái tâm nhất như, rỗng không thì tự tính phát lộ, cái nhìn nhị kiến phân biệt không còn, lúc này ‘Phật tức Tâm’ và ‘Tâm tức Phật’. Bài kệ chữ Nôm cuối bài phú Vịnh Vân Yên tự phú tiếp tục thể hiện tư tưởng vừa nêu:

Lòng Thiền vặc vặc trăng soi giại,

Thế sự hiu hiu gió thổi qua.

Cốc được tính ta nên Bụt thực,

Ngại chi non nước cảnh đường xa.

Còn đây là tinh thần ‘vô ngã’, ‘vô tâm’, ‘vô ý’, ‘lãng quên’. Tinh thần này không phải là sự xóa bỏ hay phủ nhận con người cá nhân, ý thức cá nhân, mà chính là yêu cầu con người phải được giải phóng tuyệt đối, giải phóng mọi sự ràng buộc của tự nhiên, xã hội và của cả chính bản thân mình, thể hiện sự khai phóng triệt để, tạo nên con người tự do giải thoát. Đây cũng là một khía cạnh của tinh thần ‘phá chấp’, triệt bỏ ‘chấp ngã’, đạt đến tâm bình đẳng nhất như bài Cúc hoa số 3 (Hoa cúc):

Vong thân vong thế dĩ đô vong,

Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương.

Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật,

Cúc hoa khai xứ tức trùng dương.

(Quên mình, quên đời, quên hết cả,

Ngồi lâu trong hiu hắt, mát lạnh cả giường.

Cuối năm ở trong núi không có lịch,

Thấy hoa cúc nở mới biết đã tiết Trùng dương.)

Bài Yên Tử sơn am cư (Ở am núi Yên Tử) ghi lại cảnh sống của thiền sư lúc trụ trì chùa Vân Yên. Lúc này, thiền sư thật sự ung dung tự tại, giải thoát, nhàn nhã:

Am bức thanh tiêu lãnh,

Môn khai vân thượng tằng.

Dĩ lan Long Động nhật,

Do xích Hổ Khê băng.

Bão chuyết vô dư sách,

Phù suy hữu sấu đằng.

Trúc lâm đa túc điểu,

Quá bán bạn nhàn tăng.

(Cao sát trời xanh, am thiền mát lạnh,

Cửa mở trên tầng mây.

Trước Long Động, mặt trời đã một cây sào,

Dưới Hổ Khê, băng còn dày một thước.

Giữ thói vụng về không có mưu chước gì,

Đỡ tấm thân già yếu đã có chiếc gậy mây khẳng kheo.

Rừng trúc nhiều chim đậu,

Quá nửa làm bạn với nhà sư thanh nhàn.)

Trong thơ Huyền Quang, bên cạnh hình ảnh con người như trên thì còn có con người trễ tràng lãng quên mọi việc: không bận tâm đến mọi vật chung quanh, trong lúc củi trong lò đã tàn, hương trên đỉnh đã tắt, mà nhà sư không đốt thêm củi, thắp thêm hương, vẫn nằm khểnh trên giường, kinh vẫn để trên án thư, trong khi mặt trời đã lên cao đến ba con sào, như trong bài Thạch thất (Nhà đá):

Bán gian thạch thất hòa vân trụ,

Nhất lĩnh xối (thuế) y kinh tuế hàn.

Tăng tại thiền sàng, kinh tại án,

Lô tàn cốt đột nhật tam can.

(Nửa gian nhà đá, ở lẫn cùng mây,

Một tấm áo lông, trải hết mùa đông rét buốt.

Sư ở trên giường thiền, kinh ở trên án,

Lò tàn, củi lụi, mặt trời lên đã ba cây sào.)

Hay như bài Địa lô tức sự (Trước bếp lò tức cảnh):

Ổi dư cốt đột tuyệt phần hương,

Khẩu đáp nhi đồng vấn đoản chương.

Thủ bả suy thương hòa thái thác,

Đồ giao nhân tiếu lão tăng mang.

(Củi đã tàn, cũng chẳng thắp thêm hương,

Miệng trả lời chú bé hỏi về những chương sách ngắn.

Tay cầm ống thổi, tay nhặt mo nang,

Luống để người ta cười vị sư già này bận bịu.)

Thiên nhiên trong thơ Huyền Quang có dáng vẻ riêng. Hình ảnh thiên nhiên đôi lúc cũng gợi cho thi nhân một chút xúc động ray rứt. Trong đêm thu thanh vắng, sống trong ngôi nhà cỏ trên núi với tấm lòng thiền trống không, trạm nhiên hư tịch, vậy mà thiền sư vẫn nghe và cảm nhận được tiếng côn trùng eo óc rầu rĩ vì ai, như trong bài Sơn vũ ( Nhà trong núi): Dĩ hĩ thành thiền tâm nhất phiến, Cùng thanh tức tức vị thùy đa (Thôi rồi, lòng ta đã hoàn toàn yên tĩnh, Tiếng dế vì ai vẫn rầu rĩ mãi). Vì thế, có lúc nhìn hoa mai khoe sắc trước gió xuân mơn man, thiền sư ngậm ngùi tiếc từng cánh hoa, muốn bẻ về ngắm nhìn để an ủi bệnh già, chứ không phải là để che mắt những người tinh đời tưởng mình thanh cao: Nguyện tá xuân tư ủy bệnh ông(Chỉ muốn mượn tứ xuân để an ủi ông già ốm yếu) như trong bài Mai hoa (Hoa mai).

Có lúc nhìn cảnh xuân không có chủ, nên thơ không có nguồn, vì thế thiền sư không có nhã hứng cất bút đề thơ, do thế, mấy cây hoa buồn bã trước gió xuân, như trong hai câu cuối bài Thứ Bảo Khánh tự bích gian đề(Họa bài thơ đề trên vách chùa Bảo Khánh):

Xuân vô chủ tích, thi vô liệu,

Sầu tuyệt Đông phong kỉ thụ hoa.

(Tiếc thay cảnh xuân không có chủ, thơ không có nguồn thơ,

Mấy cây hoa buồn bã trước gió xuân.)

Đến đây, ngoại cảnh cũng chính là tâm cảnh. Tâm và Pháp đều cùng một bản thể nhất như, không phân biệt. Nhưng người đời có mấy ai tri nhận được điều này, họ cứ nghĩ rằng đã là thiền sư sao lại còn có tấm lòng rạo rực tràn trề với cuộc sống trần thế như vậy, nên người đời mới có chuyện dị nghị, vu cho ông đã dan díu với tình! Chuyện oan tình này, lịch sử đã xác minh. Điều tâm sự đó đã được thiền sư – thi sĩ ghi lại trong bài Nhân sự đề Cứu Lan tự (Nhân có việc, đề ở chùa Cứu Lan):

Đức bạc thường tàm kế tổ đăng,

Không giao Hàn, Thập khởi oan tăng.

Tranh như trục bạn quy sơn khứ,

Điệp chướng trùng san vạn vạn tằng.

(Thường thẹn mình đức mỏng mà được nối ngọn đèn tổ,

Luống để cho Hàn San và Thập Đắc phải sinh niềm oán giận.

Chi bằng theo bạn về núi,

[Sống giữa] muôn vàn tầng núi non trùng điệp.)

Không riêng gì bài Nhân sự đề Cứu Lan tự này, cái ý “muốn về núi ẩn cư” để được ngủ dưới luồng gió mát trong rừng tùng, hoặc thưởng thức chén trà dưới vầng trăng sáng được thiền sư nhiều lần nhắc đến trong nhiều bài thơ khác nhau: Ngọ thụy, Yên Tử sơn am cư, Tặng sĩ đồ tử đệ, Thạch thất, Đề Động Hiên đàn việt giả sơn, Trú miên...

Những bài thơ của Huyền Quang viết về thiên nhiên thông qua cảm quan của mĩ học Thiền, có thể nói là những kiệt tác nghệ thuật. Bài Phiếm chu (Chơi thuyền) chẳng hạn, với hình ảnh con thuyền cưỡi gió lướt trên dòng sông mênh mông, trong cảnh non xanh nước biếc dưới ánh sáng mùa thu. Trong không gian tĩnh lặng ấy có vài ba tiếng sáo làng chài vang lên, trong khi đó ánh trăng rơi xuống đáy sông, còn trên mặt sông thì sương phủ đầy. Cảnh được tái hiện lung linh, huyền ảo, thơ mộng chẳng khác nào tiên cảnh:

Tiểu đĩnh thừa phong phiếm dĩ mang,

Sơn thanh thủy lục hựu thu quang.

Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,

Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.

(Chiếc thuyền con lướt gió lênh đênh trên dòng sông bát ngát,

Non xanh, nước biếc, lại thêm ánh sáng mùa thu.

Vài tiếng sáo làng chài ngoài khóm hoa lau,

Trăng rơi đáy sóng, mặt sông đầy sương.)

Bài Tảo thu (Thu sớm) với cảnh trăng tỏa sáng như giăng lưới trên cành cây trong gió thu xào xạc:

Dạ khí phân lương nhập họa bình,

Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh.

Trúc đường vong thích hương sơ tận,

Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh.

(Khí đêm chia hơi mát vào bức rèm vẽ,

Cây trước sân xào xạc báo tiếng thu.

Dưới mái tranh quên bẵng hương vừa tắt,

Mấy khóm cây cành giăng lưới vầng trăng sáng.)

Thơ của Huyền Quang không chỉ trải lòng với thiên nhiên gió trăng thơ mộng mà còn thể hiện sâu đậm tính nhân văn tuyệt đẹp và cảm động. Ở cấp độ này, thơ Huyền Quang đã nêu được mối quan hệ tuyệt đẹp giữa người với người, giữa con người với cuộc sống. Đây là những nguyên tắc đạo lí làm người, là thái độ ứng xử tốt đẹp trong các mối quan hệ giữa con người với nhau, là khát vọng về hạnh phúc, về quyền sống của con người, là lòng thiết tha vun đắp những giá trị nhân bản để ngày càng hoàn thiện. Cảm hứng nhân văn cao đẹp này trong văn học trung đại Việt Nam mạt kì (giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX) đã phản ánh rõ nét và có nhiều thành tựu xuất sắc. Tuy vậy, ngay từ thời Lý – Trần, cảm hứng nhân văn này cũng đã có mặt trong sáng tác của nhiều tác gia như Trần Nguyên Đán, Chu An, Nguyễn Phi Khanh… Thơ Huyền Quang cũng đã góp phần làm nên sự đa dạng và phong phú cho cảm hứng nhân văn này qua một đề tài mới và lạ: Viết về nỗi nhớ nhà của người lính đối phương bị ta bắt làm tù binh qua bài thơ Ai phù lỗ (Thương tên giặc bị bắt làm tù binh):

Khóa huyết thư thành dục kí âm,

Cô phi hàn nhạn tái vân thâm.

Kỉ gia sầu đối kim tiêu nguyệt,

Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.

(Chích máu viết thư muốn gửi lời,

Cánh nhạn lạnh lùng bay xuyên vào đám mây ngoài quan ải.

Bao nhiêu nhà buồn ngắm bóng trăng đêm nay,

Đôi nơi xa cách nhưng tấm lòng nhớ thương vẫn chỉ là một.)

Bài thơ là nỗi lòng thương cảm sâu xa của thiền sư – thi sĩ đối với tên giặc bị bắt. Nhà thơ hiểu được tâm trạng nhớ quê nhà, nhớ người thân của tù nhân và ghi lại những dòng thơ đầy xúc động. Thật hiếm gặp những bài thơ như thế trong văn chương đời Trần.

Cũng là cảm hứng nhân văn, đậm tính nhân bản, điều chúng tôi muốn thông báo ở đây là một hiện tượng rất lạ và độc đáo, có thể xem đây là hiện tượng “vô tiền khoáng hậu” trong văn chương. Đó là nỗi lòng rạo rực rất đáng yêu, rất dễ thương trước tình xuân của một con người tưởng chừng như đã thoát khỏi bụi trần của thiền sư – thi nhân qua bài Xuân nhật tức sự (Tức cảnh ngày xuân):

Nhị bát giai nhân thích tú trì,

Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng li.

Khả liên vô hạn thương xuân ý,

Tận tại đình châm bất ngữ thì 4.

(Người đẹp tuổi vừa đôi tám, đang ngồi thêu gấm chậm rãi, dưới lùm hoa tử kinh đang nở, tiếng chim hoàng oanh hót líu lo. Thương biết bao nhiêu cái ý thương xuân của nàng, Cùng dồn lại ở một giây phút, dừng kim và im phắc.)

Bài thơ là một bức tranh đẹp về mùa xuân với lòng rạo rực của nhà thơ trước bóng giai nhân đang độ xuân thì. Nhà sư mơ mộng quá! Trái tim nhà sư giàu xúc cảm rạo rực quá! Vì thế mới tái hiện cảnh xuân, tình xuân ngập tràn hơi thở cuộc sống đầy mê say, đến nỗi người đời sau hạ bút viết lời bình “Thi tuy giai, phi tăng gia ngữ dã.” (Thơ tuy hay nhưng không phải khẩu khí của nhà tu hành – Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục).

Có thể hiểu bài thơ theo nét nghĩa như trên mà xưa nay nhiều người đã hiểu, và chúng tôi cũng đã từng cảm nhận như thế. Nhưng gần đây, chúng tôi lại nghĩ cũng có thể hiểu bài thơ này theo một nét nghĩa khác. Có phải bài thơ viết về vẻ đẹp đáng yêu của thiếu nữ trong buổi xuân thì không? Hình ảnh giai nhân 16 xuân xanh đang ngồi thêu chậm rãi dưới hoa kia là hình ảnh thực hay chỉ là biểu tượng cho sức xuân đang trỗi dậy, cho tình xuân đang nồng nàn ngập tràn sức sống? Tôi nghĩ có lẽ là thế. Đây chỉ có thể là hình ảnh biểu tượng mà thôi. Có thể thiền sư Huyền Quang đã dùng hình ảnh này để biểu đạt cái sức sống mùa xuân đang trỗi dậy, cái tình xuân đang nồng nàn quyến rũ. Và tất cả hiện thực cuộc sống đầy vẻ xuân sắc ấy được cảm nhận bằng cái nhìn Thiền, thể hiện cảm quan mĩ học Thiền. Đứng trước vẻ đẹp đầy sức xuân kia, con người chỉ có thể cảm nhận bằng chiều sâu của trực cảm tâm linh, chứ không thể thốt nên lời, và cũng không có bút mực, ngôn ngữ nào tả ghi lại được. Vì thế, kết thúc bài thơ là cái vô ngôn (bất ngữ thì) đúng vào lúc dừng kim thêu (đình châm). Đó cũng chính là trạng thái “vô ngôn đốn ngộ” trong nhà Thiền.

Và cho dù, cảm và hiểu bài thơ theo cấp độ nào đi nữa thì cuối cùng vẫn là tấm lòng rạo rực của thiền gia – thi sĩ trước vẻ đẹp xuân tình. Một thiền sư lòng đã trống không, tâm nhập niết bàn, mà trái tim vẫn luôn rạo rực, thao thức hướng về cuộc đời, về con người với những rung động tinh tế trước vẻ đẹp của trần thế là chuyện rất lạ. Phải chăng đó cũng chính là một biểu hiện của tinh thần tùy duyên, tùy tục, hòa quang đồng trần, cư trần lạc đạo mang tính nhập thế của Phật giáo Đại Việt nói chung, của thiền phái Trúc Lâm đời Trần nói riêng?

Nói như thế để khẳng định rằng, bất kì thời đại nào, tình xuân bao giờ cũng có sức mạnh huyền bí và quyến rũ của nó. Đó chính là tố chất, là nguồn cảm hứng để thi nhân, dù là thiền sư với cái tâm vắng lặng hư tịch, cất bút đề thơ. Cho nên, chút tình xuân rạo rực vẫn là đề tài muôn thưở của thi ca.

Tóm lại, Huyền Quang là một thi nhân – thiền sư đã đắc đạo giải thoát. Thơ của ông gắn với cảm quan mĩ học Thiền nên sâu lắng, ý tại ngôn ngoại, được biểu đạt bởi một bút lực già dặn và tài hoa của một tâm hồn nghệ sĩ, cùng ngôn ngữ tinh tế và hàm súc. Dù chỉ còn một số bài thơ, nhưng qua những thi phẩm này, có thể nói Huyền Quang xứng đáng là đại biểu xuất sắc của dòng thơ Thiền trữ tình trong văn chương cổ điển Việt Nam.